*/ Ra giêng ngày rộng tháng dài nên mình được treo hồn ngược lên ngọn cây và cùng vui, buồn với... nàng Kiều. Thú vui này với mình thật tao nhã ! hihi!
(hoa này lấy trên net)
(Theo Google: Tri âm hiểu tiếng, tri kỷ hiểu lòng. Tri kỷ được hiểu là người hiểu rõ tính cách, tâm tư trong sâu thẳm tâm hồn bạn. Hiểu mà không cần phải nói ra. Tri âm, tri kỷ là loại tình cảm đặc biệt, họ có thể không phải là bạn đời, người thân nhưng luôn đem đến cảm giác thoải mái mỗi khi bạn được nói chuyện với họ. Bởi vậy mới có câu: "Quen biết đầy thiên hạ, tri kỷ được mấy người"
*/ Trong cuộc đời mình, Thúy Kiều có tất cả 6 người chồng (Mã Giám Sinh;Thúc Sinh; Bạc Hạnh; Từ Hải; Thổ Quan và Kim Trọng). Trong đó Kiều có tình cảm đặc biệt với ba người là: Kim Trọng (người yêu đầu và là chồng sau cùng); Thúc Sinh (người tình- chồng không chính thức) và Từ Hải (chồng). Vậy ai trong ba người đó ai là người hiểu Kiều? là tri âm, tri kỷ của Kiều ?
1/ ... Nếu dựa vào câu chữ của cụ
Nguyễn Du, ta có thể cho rằng Kim Trọng là tri kỷ của Kiều. Vì mối tình giữa Kim Trọng với Thúy Kiều là mối tình đẹp,
trong trắng, chung thủy và nên thơ nhất .
Tình yêu Kim – Kiều là tình yêu đẹp, lý tưởng là tình yêu của trai tài gái sắc.
Kim Trọng là người thư sinh, nho nhã, có học :
"Văn chương nết đất, thông minh tính trời "
“Phong
tư, tài mạo tót vời.
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.”
Với hình dáng đó của Kim Trọng, Kiều mới gặp lần đầu là đã xao xuyến, mơ tưởng :
“
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Trăm
năm biết có duyên gì hay không?”.
Nàng nghĩ về tình yêu đó:
“Nợ tình
chưa trả cho ai.
Khối
tình mang xuống tuyền đài chưa tan” (câu
709 và 710- Truyện Kiều)
Yêu nhau như vậy nhưng liệu Kim Trọng có hiểu tâm tư của Kiều không ? Chúng ta hãy tìm hiểu xem:
+ Lần đầu khi thấy cảnh Kiều đánh đàn rất nhập tâm:
“Khi tựa
gối, khi cúi đầu.
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”.
Kim Trọng lại cho rằng :
“Rằng hay thì thật là hay.
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Lựa
chi những khúc tiêu tao.
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.”
Nói như vậy là Kim Trọng chưa hiểu hết tâm tư, suy nghĩ và sự nhạy cảm của Thúy Kiều.
+ Lần thứ hai là khi hai
bên đã thân mật hơn, không còn kiểu:“Tình
trong như đã mà ngoài còn e”, giữa khung cảnh lãng mạn:
“Vầng trăng vằng vặc giữa
trời,
Đinh ninh hai miệng một
lời song song “
Cảnh này dành cho những người đang yêu, lẽ ra lúc này Kim Trọng nên tâm sự với Kiều là phù hợp nhất thì Kim
Trọng lại có cử chỉ, hành động rất "đời":
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều
lả lơi”
Kiều thời gian này (khoảng 15 tuổi) còn đang trong trắng,
ngây thơ và là con gia giáo nên đã không đồng ý với hành xử của chàng Kim, mà rằng:
“Thưa rằng
đừng lấy làm chơi.
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao”.
+ Lần thứ ba là khi hai
người gặp nhau sau mười lăm năm xa cách, để giữ thể diện cho Kim Trọng và bản thân mình, Kiều cũng không muốn mang tấm thân không còn trinh bạch của mình vấy bẩn đời chàng
Kim nên nàng quyết định: “đem tình cầm sắt,
đổi ra cầm cờ”. Nhưng đổi lại, trong cái đêm gọi là động phòng ấy Kim Trọng vẫn cố kèo nài
nàng để được gần gũi nàng. Một lần nữa
buộc lòng Kiều phải tìm lời lẽ thuyết phục:
“
Người yêu ta xấu với người.
Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau.
Cửa nhà dù tính về sau.
Thì
còn em đó lọ cầu chị đây.
Chữ trinh còn một chút này.
Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan.
Còn nhiều ân ái chan chan.
Hay
gì vầy cánh hoa tàn mà chơi.”
Khi nghe Kiều nói vậy thì Kim Trọng mới biết là mình đã hiểu sai về nàng:
“Chừng
xuân tơ liễu còn xanh.
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân”.
Qua đó ta thấy rằng Kim Trọng chưa thật hiểu, chưa tôn trọng Kiều, nên không thể là người tri kỷ của Kiều.
2/.Người thứ hai là Thúc Sinh :
Mối tình Thúc Sinh với Thuý Kiều không đẹp,
không trong trắng như mối tình của Kim Trọng với Thúy Kiều. Nhưng có lẽ Thúc
Sinh là người có nhiều điểm tương đồng với Kiều hơn cả. Thúc Sinh chính là người
đã cứu Kiều ra khỏi lầu xanh (lần 1), khi mà Kiều xem như mình đã chết:
“Mặc
người mưa Sở, mây Tần.
Riêng mình nào biết có xuân là gì.
Vui
là vui gượng kẻo là.
Ai tri âm đó mặn mà với ai.”
Thúc Sinh đã chinh phục
được Kiều bằng cách:
“Sớm
đào tối mận lân la.
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng”
Hay kiểu:
“Miệt
mài trong cuộc truy hoan.
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.”
Qua
đó thấy về tài cầm, kỳ, thi, họa thì chỉ có Thúc Sinh mới sánh được với Kiều.
Hai người vẫn thường chơi cờ, họa đàn với nhau.
Kiều có tài làm thơ:
“Ví đem vào tập đoạn trường.
Thì treo
giải nhất chi nhường cho ai.”
Nhưng Thúc Sinh còn làm
thơ giỏi hơn vì Kiều đã khen thơ của Thúc Sinh là:
“Lời lời
châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.
Và chịu thua Thúc Sinh:
“họa
vần, xin hãy chịu chàng hôm nay”.
Xét về một khía cạnh khác thì Thúc Sinh thực sự
thương yêu Kiều nên mới bỏ tiền cứu Kiều ra khỏi lầu xanh và quyết lấy nàng làm
vợ lẽ (chưa được Hoạn Thư chấp nhận). Thúc Sinh về hình dáng không "tài mạo tót vời" như Kim Trọng
và cũng chẳng phải là anh hùng "Gươm
đàn nửa gánh non sông một chèo" như Từ Hải nhưng Thúc Sinh là một người yêu thương Kiều hết mực, đã từng hứa hẹn:
“Trăm điều hãy cứ
trông vào một ta.
Đã gần chi có đường xa?
Đá vàng đã quyết,
phong ba cũng liều!” (câu 1364 -1366)
Hai người đã từng có khoảng
thời gian sống hạnh phúc bên nhau.
“Gót
tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum họp trúc mai.
Càng
sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương
càng đượm, lửa càng nồng
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen
Nửa năm, hơi tiếng vừa quen,
sân ngô cành bích đã chen lá vàng" (câu 1380 đến 1386)
Khi biết Thúc Sinh đã có vợ, Kiều khuyên Thúc Sinh về quê nói thật với vợ chuyện của hai người:
"...Hơn điều giấu ngược dấu xuôi
lại mang những việc tày trời đến sau.
Thương nhau xin nhớ lời nhau.
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay.
chén mừng xin đợi ngày này năm sau..." (từ câu 1513 đến câu 1518)
Vì thế nên khi chia tay để Thúc Sinh về quê, Kiều cảm thấy vô cùng cô đơn, trống trải:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm
màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh
an,
Trông người đã khuất mấy
ngàn dâu xanh.
Người
về chiếc bóng năm canh.
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi.
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. (từ câu 1519 đến 1526)
(đoạn thơ tả cảnh chia ly này phải nói là quá hay)
... Khi về quê gặp vợ, do chưa hiểu hết về Kiều nên Thúc Sinh đã
“bưng bít dấu quanh” chuyện của hai
người mà không làm theo lời dặn của Kiều. Còn vợ Thúc Sinh là kiểu người đẹp mà thông minh :“ Đàn bà dễ có mấy tay/ đời
xưa mấy mặt đời này mấy gan”, thêm gốc gác của vợ Thúc Sinh lại thuộc dạng chẳng
vừa : “Vốn dòng họ Hoạn danh gia/ Con
quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư”, nên sự việc đã đi quá xa, ngoài tầm kiểm soát
của Thúc Sinh. Khi bị Hoạn Thư phát hiện, Kiều muốn bỏ trốn nên nói với Thúc
Sinh:
“Liệu
mà mở cửa cho ra
Ấy
là tình nặng ấy là ơn sâu”
Còn Thúc Sinh khi trốn
vợ gặp Kiều đã khóc lóc, thề thốt đủ kiểu:
“Thừa
cơ chàng mới lẻn ra
Xăm
xăm về mé vườn hoa với nàng.
Sụt
sùi giở nỗi đoạn trường.
Giọt
châu tầm tã đượm tràng áo xanh.
Đã
cam chịu bạc với tình.
Chúa
xuân để tội một mình cho hoa.
Thấp
cơ thua trí đàn bà.
Trông
vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì
ta mà lụy đến người.
Cát
lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh.
Quản
chi lên thác xuống ghềnh.
Cũng toan xuống thác với tình cho xong.
…..
Dẫu rằng non cạn đá mòn.
Con tằm đến thác vẫn còn tơ vương”..
Nhưng khi bị vợ phát hiện
thì lại nói với vợ:
“Dối
quanh Sinh mới lựa lời
Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh”.
Khi Kiều gặp khó khăn thì Thúc Sinh đã bỏ mặc Kiều một mình trong cơn họan nạn và còn nói rằng:
“Liệu
mà xa chạy, cao bay.
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Qua những đoạn thơ trên của Nguyễn Du ta thấy rằng Thúc Sinh yêu Kiều tha thiết nhưng lại sợ vợ đến nhu nhược nên đã không bảo vệ được người mình yêu nên Thúc Sinh cũng không phải là người tri kỷ của Kiều .
3/Người thứ ba là Từ Hải:
Từ Hải là một người có hình dáng phi thường : "Râu hùm, hàm én, mày ngài/ vai năm tấc rộng, thân mười thước cao".Từ Hải là một anh hùng đích thực, võ nghệ xuất chúng, có tài thao lược : "Đường đường một đấng anh hào/ Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Đó là một tài tử đa tình và hào hiệp: trong tình cảm họ Từ không dềnh dàng kiểu“sớm mận, tối đào”, khi ưng là Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cưới nàng làm vợ ngay và luôn. Còn Thúy Kiều sau khi trốn khỏi nhà Hoạn Thư, nàng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Lần thứ hai Kiều bị đẩy vào chốn thanh lâu, khi Kiều may mắn gặp Từ Hải thì “ Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”
Ngay khi Từ Hải và Thuý Kiều vừa mới gặp nhau đã: “Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”. Chỉ nghe Kiều nói một đôi câu khiêm nhường là Từ Hải đã “vừa ý gật đầu” và xem Kiều là người “tri kỷ” của mình ngay. Từ Hải đến lầu xanh gặp Thúy Kiều không phải tình “trăng gió” mà là “ tâm phúc tương cờ ”, tìm người "tri kỷ". Vì vậy khi nghe Kiều nói lên niềm hi vọng “ Tấn Dương thấy được mây rồng có phen", Kiều gửi gắm sự trông cậy sự chở che: "Rộng thương cỏ nội, hoa hèn / Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” . Từ Hải khẳng định: Kiều là tri kỷ, gắn bó với nhau, giàu sang phú quý cũng không quên nhau. Đó là mối tình thực tế: "Một lời đã biết đến ta/Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau."
Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh rất đàng hoàng “Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn ". Từ Hải đã cưới Kiều làm vợ, con người "giang hồ quen thói vẫy vùng" này đã "sửa chốn thanh nhàn" sống trong mái ấm hạnh phúc lứa đôi “ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên”.
Xét xem Từ Hải- Thúy Kiều có là tri kỷ của nhau không, ta thấy: Từ Hải đến với Kiều chỉ vì sắc đẹp ‘nghiêng nước nghiêng thành” của nàng. Còn Kiều đến với họ Từ chủ yếu là tìm thấy một chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống bấp bênh của mình. Về tính cách thì Từ Hải và Thuý Kiều gần như là sự tương phản: Từ Hải:“vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, còn Kiều thì “liễu yếu đào tơ”; Từ Hải “thanh gươm yên ngựa”, còn Kiều thì “cầm kỳ thi họa”; Từ Hải bộc trực, nói năng có phần bỗ bã khi hỏi Kiều: “mắt xanh chưa để ai vào, có không ?”, còn Kiều thì nói năng nhẹ nhàng, bóng bẩy, chữ nghĩa “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”… Cuộc tình duyên giữa Kiều với Từ Hải mang đậm màu sắc lãng mạn. Thật đẹp đôi: "Trai anh hùng, gái thuyền quyên/ Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng". Nhưng họ có là tri kỷ của nhau không? :
Qua cuộc đối thọai giữa Kiều và Từ Hải trong lần Kiều thuyết phục Từ
Hải ra hàng, ta thấy sự chênh lệch rất lớn về suy nghĩ của hai người . Từ Hải cho rằng:
"Bó thân về với triều đình.
Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao.
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau.
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi.
Sao bằng riêng một biên thuỳ.
Sức này đã dễ làm gì được nhau…"
Trong khi đó, Kiều lại khuyên Từ nên về với triều đình vì:
"Sao bằng lộc trọng, quyền cao.
Công danh ai dứt
lối nào cho qua ?"
Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ thấy họ không phải là những người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Xét ra thì Từ Hải là ân nhân của Kiều chứ không phải là người tri kỷ của nàng.
Như vậy dù có người yêu, người tình và cả chồng nhưng Thúy Kiều vẫn chưa gặp được người tri âm, tri kỷ của đời mình !
Nhưng trong ba người trên thì có vẻ như Thúc Sinh là người yêu, thương và hiểu nàng nhất!
(P/s: Hình ảnh- Bài viết là từ sự tổng hợp, sưu tầm có rút gọn, chỉnh sửa và bổ sung từ nhiều nguồn trên net)